BẮC GIANG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết
Bắc Giang là tỉnh miền núi và cũng là vùng đất địa linh, trên địa bàn tỉnh hiện có trên 2.000 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có nhiều di tích cổ vài trăm năm tuổi như: Chùa Vĩnh Nghiêm nơi lữu giữ Mộc bản đã được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới, Khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Chùa Bổ Đà nơi lưu giữ Mộc bản kinh Phật được khắc từ năm 1740 đời vua Lê Cảnh Hưng; cụm di tích lịch sử xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang nơi có Cây Dã hương ngàn năm tuổi và còn nhiều di tích, lịch sử khác để phát triển du lịch tâm linh trong thời gian tới.

Bắc Giang là tỉnh miền núi và cũng là vùng đất địa linh, trên địa bàn tỉnh hiện có trên 2.000 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có nhiều di tích cổ vài trăm năm tuổi như: Chùa Vĩnh Nghiêm nơi lữu giữ Mộc bản đã được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới, Khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Chùa Bổ Đà nơi lưu giữ Mộc bản kinh Phật được khắc từ năm 1740 đời vua Lê Cảnh Hưng; cụm di tích lịch sử xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang nơi có Cây Dã hương ngàn năm tuổi và còn nhiều di tích, lịch sử khác để phát triển du lịch tâm linh trong thời gian tới.

 Nếu Đông Yên Tử (tỉnh Quảng Ninh) là nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu tập, thì Tây Yên Tử (tỉnh Bắc Giang) là con đường hoằng dương Phật Pháp của vị vua từng rũ bỏ vinh hoa, phú quý, chuyên tâm tu hành và tạo dựng một dòng Thiền mang bản sắc dân tộc Việt. Sau khi Phật Hoàng nhập niết bàn, sư Pháp Loa và tổ đệ tam Huyền Quang cũng theo con đường phía Tây này thực hiện nhiệm vụ Phật sự của Trúc Lâm, cho mở mang, xây dựng chùa tháp, phát triển đạo Phật rộng khắp ở Bắc Giang. Di tích quốc gia đặc biệt Chùa Vĩnh Nghiêm trở thành điểm hành hương, du lịch hấp dẫn.

Một góc Yên Tử (Ảnh: Việt Hưng)

Chùa Vĩnh Nghiêm thuộc địa phận thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng (cách thành phố Bắc Giang 18 km về phía nam). Chùa được xây dựng từ thế kỷ XIII, quần thể chùa là một di tích kiến trúc cổ kiểu “nội vương ngoại vi”, chùa Vĩnh Nghiêm tự là ngôi chùa lớn của phái thiền Trúc Lâm mang đậm bản sắc dân tộc và được coi là Trường Đại học Phật giáo đầu tiên của nước ta.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Ảnh: Trần Lan, DOFA)

 Trong tấm bia được dựng vào năm Hoàng Định thứ 7 (năm 1606) hiện còn lưu giữ ở chùa, viết rằng: “Chùa Vĩnh Nghiêm không chỉ là một ngôi chùa mà còn là một danh lam xây dựng, một khu cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp của vùng Kinh Bắc. Nơi đây trang nghiêm rực rỡ, non cao ngàn dặm, trùng trùng điệp điệp vây quanh thành hình cái nong, chùa ở chỗ con sông sóng nước dạt dào mênh mông, quanh co uốn lượn chầu về như dải lụa đào. Đây là danh lam đứng đầu thiên hạ".

Tọa lạc trên quả đồi thấp, bao quanh là những ngọn núi non, sông nước, chùa Vĩnh Nghiêm cổ kính và tĩnh lặng thu hút vào tầm mắt của du khách thập phương là một phong cảnh hữu tình. Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang – Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc.

  Được xây dựng từ thời Lý, đến thời Trần, Chùa Vĩnh Nghiêm mang một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn hóa Phật giáo khi trở thành nơi tu hành của các bậc cao tăng. Mà đỉnh cao nhất là 3 vị Tam tổ của thiền phái Trúc Lâm là Thượng Hoàng Điều Ngự Trần Nhân tông, Pháp Loa và Huyền Quang đều thụ giới ở chùa Vĩnh Nghiêm, lấy nơi này làm trung tâm phật giáo thời Trần để đào tạo tăng đồ và xếp đặt tăng chức, chỉ đạo các chùa trong cả nước. Với diện tích cả khu chùa rộng khoảng 10.000 m2, mở đầu là cổng Tam quan, đi vào hơn 100m là chùa Hộ (hay còn gọi là Tiền Đường). Đường vào chùa Hộ, xưa được trồng thông để chùa thành trốn tùng lâm hữu tình, hiện tại vẫn còn một vài cây đứng trên sân chùa như những chứng tích của thời gian. Ngay trên sân chùa là một tấm bia to 6 mặt đó là tấm bia năm Hoằng Định. Đây là dấu vết lâu đời nhất của chùa hiện còn. Đối diện với tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 8 vị sư, đều được xây dựng mãi sau này.

Từ chùa Hộ trở vào, các khối kiến trúc nối tiếp nhau xây trên trục chính theo một hướng đông nam và được phân cách bằng một khoảng sân hẹp. Trong chùa có 4 khối: Chùa Phật (các nhà Tiền đường tức chùa Hộ, Thiêu hương và Thượng điện) hình chữ “công” nhà tổ đệ nhất cũng hình chữ “công” – gác chuông hai tầng tám mái – nhà Tổ đệ nhị và nhà Trai Đường kiểu chuôi vồ. Hai bên còn có các dãy nhà Tả vu và Hữu vu, mỗi dãy gồm 18 gian rộng rãi là nơi hàng năm các sư về an cư kết hạ.

Cả 4 khối kiến trúc trên đều theo kết cấu khung gỗ cổ truyền, nhưng từ khối nhà Tổ đệ nhất trở về sau thì có thêm một số cột gạch và tường gạch hỗ trợ chịu lực. Ngay các thành phần kiến trúc gỗ, trừ bốn cột chính nhà Thượng Điện to lớn lực lưỡng bóng lộn là dấu vết thời gian của thời Lê, còn lại những cột kèo thanh thoát thời Nguyễn. Kiến trúc chùa thể hiện trình độ thẩm mỹ tuyệt vời của người xưa với toàn bộ cảnh chùa có độ cao thấp, sự giãn cách khác nhau, tạo ra một nhịp điệu phong phú. Song nói chung nó tuyệt đối không vươn cao đột ngột mà có xu hướng dàn trải, kéo dài theo chiều sâu, để luôn gây bất ngờ cho du khách.

Một góc chùa Vĩnh Nghiêm (Ảnh: Trần Lan, DOFA)

Một giá trị khác của chùa Vĩnh Nghiêm là bộ ván khắc kinh vẫn được gọi là Mộc thư cũng có niên đại tới 700 năm. Những bản ván in kinh tinh xảo là hiện vật chứng minh chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lĩnh 72 chốn tùng lâm. Hiện nay “Kho mộc thư vẫn còn lưu giữ 34 đầu sách với gần 3.000 bản khắc, mỗi bản 2 mặt, mỗi mặt 2 trang sách âm bản chứa khoảng 2000 chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó có những bản khắc đặc biệt quý như Khóa Hư Lục, Kinh Hoa Nghiêm…”.

"Mộc thư khố" được lưu giữ tại 8 kệ sách trong điện chính của chùa. Đây là kho sách bằng gỗ có tổng số hơn 3.000 bản, trong đó hầu hết là kinh, sách thuốc, luật giới nhà Phật. Số còn lại là trước tác của Tam thế tổ và một số vị cao tăng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử (thơ, phú, nhật ký...) được khắc bản cách đây trên dưới 200 năm.

 Theo dòng lạc khoản khắc ở bài tựa và dòng lạc khoản cuối các cuốn kinh thì kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm phần nhiều được khắc in dưới triều các vua Tự Đức, Thành Thái nhà Nguyễn (nửa sau thế kỷ XIX), một số ít được khắc dưới triều vua Cảnh Hưng, nhà Lê (nửa cuối thế kỷ XVIII ). Căn cứ vào bản "Tâm thượng ngư vĩ" của mộc bản thấy rằng: kho mộc bản có hơn ba chục đầu kinh, sách các loại, trong đó quá nửa là mộc bản khắc bộ Hoa Nghiêm kinh, còn lại là Di Đà kinh, Quan Thế âm kinh, Tì Kheo ni giới kinh, Khai thánh chân kinh... và các sách, luật nhà Phật.      

 Các mộc bản này đều bằng chất liệu gỗ cây thị, có nhiều kích cỡ khác nhau tùy theo từng kinh sách. Bộ "Yên Tử nhật trình" có niên đại cuối thế kỷ XVI, là bộ ván in cổ nhất của kho mộc thư chùa Vĩnh Nghiêm, có kích thước 1,8x0,3 m là bộ lớn nhất, trong khi bộ "Dấu chấn" kích thước 0,25x0,17m là cuốn nhỏ nhất. Từ những ván khắc đó, người xưa phủ mực in lên trên rồi in và đóng sách theo khuôn mẫu với đủ "biên lan", "bản tâm", "ngư vĩ", "thiên đầu, địa cước". "Biên lan" có khung viền lề trang sách là một đường chỉ to và một đường chỉ nhỏ. "Bản tâm" cho biết tên sách, thứ tự trang sách. Thượng hạ Bản tâm có "Ngư vĩ" (đuôi cá) theo kiểu song "Ngư vĩ". Tả hữu, thượng hạ "Biên lan" có "Thiên đầu - Địa cước". "Biên lan" có khung viền 4 lề trang sách, gồm 1 đường chỉ to và 1 đường chỉ nhỏ (người xưa gọi là Văn vũ Biên lan). Tả hữu, thượng hạ "Biên lan" có "Thiên đầu - Địa cước" rộng chừng 2,5 cm. Nhiều trang được các nghệ nhân xưa khắc đan xen thêm những bức minh hoạ, đường nét tài hoa tinh tế, nét chữ bay bổng, siêu thoát, bố cục chặt chẽ hài hoà, xứng đáng là tác phẩm đồ hoạ trứ danh của mọi thời đại.

Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử, giờ đây kho "Mộc thư khố" này được coi như là bảo vật quốc gia. Đặc biệt, trong phiên họp chiều 16/5/2012 tại Bangkok (Thái Lan) Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã chính thức được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới, Khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chùa Vĩnh Nghiêm từ lâu đã được đồng bào trong tỉnh cũng như cả nước và nhiều khách quốc tế biết đến không chỉ đơn thuần là một điểm du lịch, bởi vẻ đẹp của kiến trúc và phong cảnh hữu tình hiếm thấy mà còn bởi bản sắc đặc biệt của văn hóa Phật giáo Việt Nam nơi đây…

Ai qua Yên Tử - Quỳnh Lâm

Vĩnh Nghiêm chưa tới, thiền tâm chưa đành.

 Trong thời gian tới tỉnh Bắc Giang đã xác định Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử là dự án trọng điểm của tỉnh trong giai đoạn năm 2010 đến năm 2030, với các hạng mục đã và đang được xây dựng như: Hệ thống Cáp treo có độ dài khoảng 2.000 m, có 02 nhà ga với ga cuối cách chùa Đồng khoảng 700 m, khu vực các chùa Trình, chùa Hạ (chùa Phật Quang), chùa Trung và chùa Thượng (chùa Kim Quy), Cổng Khu Tây Yên Tử, làng chào đón Tây Yên Tử, Khu Hiên Tây Yên Tử và Đình Tây Yên Tử; các điểm chùa có độ cao từ 145 m đến điểm cao nhất gần 1.000 m so với mặt nước biển, kết nối với chùa Đồng, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên đỉnh Yên Tử.  Khu vực chùa Hạ đã được xây dựng trên khuôn viên có diện tích 17,2 ha, trong đó chùa Hạ được xây dựng với diện tích 1,13 ha, còn lại là không gian cây xanh cảnh quan, đất dịch vụ và đất hạ tầng giao thông, chùa được khởi công  xây dựng từ giữa năm 2016 và đã được tổ chức cắt băng khánh thành chùa Hạ giai đoạn I và khai hội Tây Yên Tử từ đầu năm 2018;

 Khu vực chùa Thượng đã được quy hoạch trên khu đất có diện tích 2,36 ha, trong đó chùa Thượng được xây dựng với diện tích 2.267 m2, còn lại là không gian cây xanh cảnh quan, đất dịch vụ và đất hạ tầng giao thông. Chùa nằm ở độ cao 840 m (thấp hơn chùa Đồng 228 m), cách chùa Đồng khoảng 650 theo đường chim bay. Các ngôi chùa ở đây được xây dựng theo nguyện vọng của nhân dân địa phương bằng nguồn vốn xã hội hóa; kiến trúc chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền thống Bắc Bộ, cột kèo bằng gỗ, mái lợp ngói mũi. Hệ thống các ngôi chùa được xây dựng trên phần đất của xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động và năm ngoài phạm vi di tích danh thắng Yên Tử (thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) và Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).

  Triển khai xây dựng Khu du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử nhằm kết nối để bảo tồn, tôn tạo và phát huy tốt giá trị các di sản danh thắng khu vực Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang với Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử, với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khôi phục lại con đường hành hương của Phật Hoàng Trần Nhân Tông để tạo thành một hệ thống liên hoàn có tổ chức, nhằm giới thiệu đầy đủ hơn về vùng đất Bắc Giang văn hiến với nhân dân cả nước và là dịp để mọi cấp ủy, chính quyền địa phương, cùng toàn thể nhân dân hiểu thêm về di sản, những giá trị văn hóa mà cha, ông ta đã để lại, từ đó đồng lòng, có trách nhiệm với việc xây dựng, bảo tồn, phát triển bền vững, phát huy hiệu quả cao nhất hệ thống di tích hiện có, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, tạo động lực mới cho phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang.

                                                                             Trần Huấn

 

Số lượng truy cập Số lượng truy cập

Đang truy cập: 10,210
Tổng số trong ngày: 1,685
Tổng số trong tuần: 1,684
Tổng số trong tháng: 76,166
Tổng số trong năm: 312,907
Tổng số truy cập: 4,095,512